LIÊN KẾT WEBSITE
 
 

Tổng hợp trả lời ý kiến cử tri các địa phương qua các kỳ họp Quốc hội khóa XV
Trả lời ý kiến của cử tri huyện Gia Lộc
Cập nhật: 22/11/2022 08:39:38 PM
Các Bộ: Nội vụ, Y tế, Công an và Giao thông vận tải trả lời.
 

1. Cử tri kiến nghị tăng mức tiền lương và hoạt động phí của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.

Bộ Nội vụ trả lời như sau:

Chế độ, chính sách về tiền lương và hoạt động phí đối với đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp hoạt động chuyên trách và hoạt động không chuyên trách (trong đó có đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã) được thực hiện theo quy định tại Nghị quyết số 1206/2016/NQ-UBTVQH13 ngày 13 tháng 5 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về chế độ, chính sách và các điều kiện bảo đảm hoạt động đối với đại biểu Hội đồng nhân dân. Đến nay, thực hiện Kết luận số 20-KL/TW ngày 16 tháng 10 năm 2021 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về thời điểm thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21 tháng 5 năm 2018 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII và theo phân công của Chính phủ, Bộ Nội vụ đang tổng hợp ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và các cử tri (trong đó có cử tri tỉnh Hải Dương) để phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng các nội dung cụ thể của chế độ tiền lương mới (trong đó có liên quan đến chế độ, chính sách đối với đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp) trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định, bảo đảm phù hợp với thực tiễn, khả năng của nền kinh tế và ngân sách nhà nước theo đúng yêu cầu tại Nghị quyết số 27-NQ/TW. Trong thời gian chưa thực hiện chế độ tiền lương mới, đề nghị tỉnh Hải Dương thực hiện chính sách, chế độ tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức (trong đó có đại biểu hội đồng nhân dân các cấp) theo quy định hiện hành của pháp luật.

2. Cử tri kiến nghị Chính phủ động viên khen thưởng kịp thời các cá nhân, tập thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong công tác phòng chống dịch COVID-19; có cơ chế khuyến khích đào tạo nguồn nhân lực y tế, sửa đổi chính sách xã hội hóa trong lĩnh vực y tế, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng.

Bộ Y tế trả lời như sau:

1. Về chế độ động viên, khen thưởng kịp thời các cá nhân, tập thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong công tác phòng chống dịch COVID-19:

Từ khi dịch COVID-19 xuất hiện tại Việt Nam, Bộ Y tế đã chỉ đạo các đơn vị liên quan trình khen thưởng kịp thời  cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác phòng, chống dịch COVID-19 đặc biệt là những cá nhân trực tiếp tham gia thực hiện công tác phòng, chống dịch.

- Thực hiện Quyết định số 1479/QĐ-TTg ngày 10/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành kế hoạch triển khai phong trào thi đua đặc biệt “Cả nước đoàn kết, chung sức, đồng lòng thi đua phòng, chống và chiến thắng đại dịch COVID-19”; Hướng dẫn số 2611/HD-BTĐKT ngày 06/10/2021 của Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương hướng dẫn khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong Phong trào thi đua đặc biệt “Cả nước đoàn kết, chung sức, đồng lòng thi đua phòng, chống và chiến thắng đại dịch COVID-19”; Hướng dẫn số 121/HD-BTĐKT ngày 13/01/2021 của Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương hướng dẫn về việc khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác phòng, chống đại dịch COVID-19; Bộ Y tế đã hướng dẫn triển khai phong trào thi đua đặc biệt: “Toàn ngành Y tế đoàn kết, chung sức, đồng lòng thi đua phòng, chống và chiến thắng đại dịch COVID-19, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu kép của Chính phủ”. Hiện nay, Thường trực Hội đồng Thi đua, khen thưởng Bộ Y tế vẫn tiếp tục đề nghị Bộ trưởng Bộ Y tế tặng bằng khen cho các tập thể, cá nhân theo đề xuất của các đơn vị.

- Đề nghị khen thưởng cấp Nhà nước, cấp Bộ Y tế đối với các tập thể, cá nhân có thành tích đặc biệt, tiêu biểu xuất sắc trực tiếp tham gia công tác phòng, chống đại dịch COVID-19 tại tuyến đầu theo nguyên tắc “Cấp nào quản lý về tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và quỹ lương thì cấp đó có trách nhiệm khen thưởng hoặc trình cấp có thẩm quyền khen thưởng đối với các đối tượng thuộc phạm vi quản lý” căn cứ theo quy định tại Khoản 1, Điều 46 Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng.

2. Về cơ chế khuyến khích đào tạo nguồn nhân lực y tế

Trong giai đoạn vừa qua, công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực y tế đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng đáp ứng yêu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày càng tốt hơn. Hệ thống đào tạo nhân lực y tế đã có sự phát triển mạnh mẽ với nhiều trường đại học, cao  đẳng và trung cấp trên cả nước; đội ngũ nhân lực y tế ngàng càng được tăng cường về số lượng và chất lượng, có phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn giỏi từng bước đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân tất cả các tuyến y tế từ trung ương đến tận vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Cụ thể:

- Bộ Y tế đang cùng các cơ sở đào tạo nhân lực y tế triển khai chuẩn hóa mô hình đào tạo phù hợp với Khung trình độ Quốc gia Việt Nam và hội nhập quốc tế, đổi mới chương trình đào tạo theo hướng dựa trên năng lực. Tập trung nhiều vào đào tạo trình độ cao, phù hợp với nhu cầu phát triển hệ thống y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ, cung cấp các kỹ thuật y tế cao, chuyên sâu đáp ứng sự thay đổi mô hình bệnh tật, các bệnh dịch và bệnh mới nổi trong tình hình mới và những năm tiếp theo. Tiếp tục đào tạo cán bộ y tế theo địa chỉ (đặt hàng của địa phương), đào tạo bác sĩ trẻ tình nguyện cho các tỉnh, vùng khó khăn ở phía bắc, miền trung, đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên; đào tạo đặc thù nhân lực y tế cho một số chuyên ngành khó tuyển như Lao, Phong, Tâm thần, Pháp y, Giải phẫu bệnh. Dự án 585 đã đào tạo 354 bác sĩ trẻ có trình độ chuyên khoa cấp 1 và bàn giao về cho 85 huyện nghèo, khó khăn thuộc 22 tỉnh[1].

- Triển khai nhiều dự án, đề án khuyến khích đào tạo nhân lực y tế như: Dự án Giáo dục và Đào tạo nhân lực y tế phục vụ cải cách hệ thống y tế (HPET); Dự án Thí điểm đưa bác sĩ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (Dự án 585); Hoạt động Đào tạo nhân lực y tế cho các huyện nghèo và cận nghèo vùng khó khăn thuộc dự án số 7, “Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số” thuộc “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030”…

- Xây dựng và phát triển hệ thống đào tạo liên tục nhân lực y tế trên toàn quốc phục vụ cho việc cập nhật kiến thức y khoa cho cán bộ y tế, làm điều kiện duy trì chứng chỉ hành nghề[2].

- Bộ Y tế đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các đơn vị liên quan xây dựng và trình các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đào tạo nhân lực y tế nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý để bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực y tế, tiến tới hội nhập quốc tế [3].

- Xây dựng và trình Chính phủ thành lập Hội đồng Y khoa quốc gia theo Quyết định số 956/QĐ-TTg ngày 06/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ theo hướng mô hình các nước trên thế giới để đảm bảo chất lượng nhân lực đầu vào của hệ thống y tế và quản lý hoạt động hành nghề. Tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình đào tạo nguồn nhân lực y tế cho vùng khó khăn giai đoạn 2021-2030, định hướng đến năm 2035.

- Thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục tập trung triển khai các giải pháp, cụ thể:

+ Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến đặc thù đào tạo nhân lực y tế nhằm tạo môi trường pháp lý triển khai đổi mới đào tạo nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu đảm bảo và nâng cao chất lượng nhân lực y tế, tiến tới hội nhập quốc tế; chuẩn hóa mô hình đào tạo phù hợp với Khung trình độ quốc gia và hội nhập quốc tế; hoàn thành xây dựng chuẩn năng lực, chuẩn đầu ra, chuẩn chương trình, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo khối ngành sức khỏe theo hướng dựa trên năng lực, phù hợp với từng lĩnh vực, chuyên ngành và trình độ đào tạo gắn với yêu cầu trong tình hình mới và nhu cầu sử dụng của hệ thống y tế.

+ Đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng Y khoa Quốc gia, tổ chức thi, cấp chứng chỉ hành nghề có thời hạn phù hợp thông lệ quốc tế; hoàn thành xây dựng hệ thống kiểm định chương trình đào tạo đặc thù trong đào tạo lĩnh vực sức khỏe theo thông lệ quốc tế và triển khai có lộ trình phù hợp với điều kiện Việt Nam.

+ Tiếp tục hoàn thiện chính sách về xác định vị trí việc làm, công nhận chức danh hành nghề, giảng dạy lâm sàng; chế độ đãi ngộ về lương, phụ cấp cho người giảng dạy, người học chuyên khoa,… Xây dựng cơ chế tài chính về học bổng, học phí, kinh phí đào tạo,… phù hợp với đặc thù đào tạo nhân lực y tế.

+ Đào tạo và đào tạo lại để đáp ứng đủ số lượng cán bộ y tế các tuyến theo yêu cầu của công tác phòng, chống dịch, đặc biệt chú trọng và tăng cường đào tạo cán bộ y tế chuyên khoa Hồi sức cấp cứu, Gây mê hồi sức, Truyền nhiễm… bằng nhiều hình thức đào tạo như: bác sĩ nội trú, chuyên khoa cấp I, chuyên khoa cấp II, đào tạo liên tục cán bộ y tế, đào tạo chuyển giao kỹ thuật…

+ Tiếp tục triển khai các đề án đào tạo nhân lực y tế cho vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa; từng bước đảm bảo số lượng và chất lượng nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe dân tại tuyến cơ sở, vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa.

3. Sửa đổi chính sách xã hội hóa trong lĩnh vực y tế

- Để thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế nói chung và xã hội hóa các bệnh viện công lập nói riêng, Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành một số chính sách, pháp luật về xã hội hóa, trong đó có lĩnh vực y tế[4], trên cơ sở đó Bộ Tài chính, Bộ Y tế đã ban hành một số Thông tư, văn bản hướng dẫn để triển khai thực hiện các quy định của Luật và các Nghị định của Chính phủ về cơ chế tự chủ, về xã hội hóa.

- Hiện nay, một số cơ sở y tế công lập đang thực hiện các hình thức xã hội hóa, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư: Vay vốn ngân hàng (Ngân hàng phát triển Việt Nam, Quỹ đầu tư phát triển các tỉnh, thành phố, các ngân hàng thương mại), huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị; Liên doanh, liên kết trang thiết bị; Thuê trang thiết bị, cơ sở hạ tầng…

- Ngày 01/10/2020, Bộ Y tế đã ban hành Chỉ thị số 22/CT-BYT chấn chỉnh hoạt động liên doanh, liên kết, trong đó đã yêu cầu các Bộ, ngành, các địa phương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công tác xã hội hóa, việc liên doanh, liên kết để kịp thời phát hiện các bất hợp lý, tồn tại, phòng ngừa sai phạm có thể xảy ra; khắc phục ngay các hạn chế, thiếu sót, vi phạm mà các cơ quan quản lý, cơ quan thanh tra, kiểm toán đã phát hiện chỉ ra và xử lý nghiêm các vi phạm (nếu có). Hiện nay, Bộ Y tế đang xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định việc vay vốn, huy động vốn, liên doanh, liên kết, thuê tài sản, đấu thầu đơn vị cung ứng dịch vụ công đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực y tế - dân số.

4. Ưu tiên nguồn lực đầu tư cho hệ thống y tế, nhất là y tế cơ sở và y tế dự phòng

- Việc đầu tư, nâng cao năng lực cho y tế cơ sở, y tế dự phòng, trước hết thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương theo các chính sách của Đảng, Nhà nước và hướng dẫn của Bộ Y tế. Ngày 05/12/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2348/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới, trong đó đã quy định: Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí ngân sách địa phương (cả chi đầu tư và chi sự nghiệp) cho Đề án, ưu tiên phân bổ kinh phí từ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình mục tiêu đầu tư phát triển hệ thống y tế địa phương, Chương trình mục tiêu Y tế  - dân số và huy động các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện Đề án. Bảo đảm đủ nhân lực, nguồn tài chính cho hoạt động của y tế cơ sở; xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách, chế độ thu hút bác sỹ về làm việc tại tuyến y tế cơ sở.

- Ngày 30/01/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế  - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình. Chương trình phân bổ gần 14.000 tỷ đồng cho ngành Y tế để đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng. Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh của các Viện nghiên cứu, Bệnh viện cấp trung ương gắn với đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực y tế, sản xuất vắc- xin trong nước, thuốc điều trị COVID-19. Bộ Y tế đã tổng hợp nhu cầu của các địa phương, đơn vị và báo cáo cấp có thẩm quyền để thực hiện việc phân bổ nguồn lực của Chương trình.

- Bộ Y tế cũng đã đề xuất Chính phủ triển khai các nguồn lực đầu tư từ Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế  - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025; tiếp tục triển khai các dự án đầu tư cho y tế cơ sở từ nguồn vốn vay của Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB).

- Giải pháp về y tế cơ sở được đặt ra trong thời gian tới:

(1) Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng: Hiện nay, Bộ Y tế đã và đang nỗ lực huy động các nguồn lực đầu tư cho y tế cơ sở, triển khai mốt số chương trình, dự án lớn[5] nhằm tăng cường đầu tư toàn diện cho tuyến y tế cơ sở trong thời gian tới, trong đó đề xuất đầu tư từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế cho các bệnh viện, trung tâm y tế huyện và trạm y tế xã; triển khai các nguồn lực đầu tư từ Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025; các dự án đầu tư cho y tế cơ sở nguồn vốn vay WB, ADB.

(2) Sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bộ máy của y tế cơ sở theo hướng không theo địa bàn hành chính mà theo cụm dân cư để gần dân, người dân dễ tiếp cận hơn.

(3) Tăng cường chính sách đãi ngộ: Xây dựng và cấp có thẩm quyền ban hành chế độ tiền lương, phụ cấp đãi ngộ thỏa đáng cho cán bộ y tế cơ sở.

(4) Nâng cao chất lượng chuyên môn; Tăng cường nhân lực cho bệnh viện, trung tâm y tế huyện, trạm y tế xã, đặc biệt là vùng đô thị có mật độ dân số lớn; đổi mới chương trình đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, luân phiên cán bộ từ tuyến trên cho y tế cơ sở, trong đó chú trọng các kỹ năng sơ cấp cứu, điều trị hô hấp, các bệnh thông thường, quản lý, điều trị các bệnh không lây nhiễm, không để bị động, lúng túng trong tình huống dịch bệnh bùng phát.

(5) Đổi mới cơ chế tài chính; tăng định mức phân bổ ngân sách cho y tế cơ sở; hoàn thiện và triển khai đầy đủ gói dịch vụ y tế cơ bản cho y tế cơ sở được bảo hiểm y tế thanh toán; gói dịch vụ chăm sóc sức khỏe do ngân sách nhà nước chi trả; thực hiện thanh toán bảo hiểm y tế theo định suất. Đảm bảo cung ứng đủ thuốc, vật tư cho y tế cơ sở; đẩy mạnh quản lý một số bệnh không lây nhiễm tại y tế cơ sở.

(6) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin: Xây dựng hệ thống thông tin y tế đảm bảo tính kết nối, liên thông, tích hợp để quản lý y tế cơ sở, khám chữa bệnh từ xa, quản lý sức khỏe người dân.

3. Cử tri kiến nghị Bộ Công an có cơ chế phối hợp với Ngân hàng nhà nước và có biện pháp ngăn chặn, xử lý nghiêm minh các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tải khoản ngân hàng của người dân qua zalo, facebook, điện thoại.

Bộ Công an trả lời như sau:

Thời gian qua, tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng có xu hướng gia tăng, diễn biến ngày càng phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, có tính chất xuyên quốc gia, gây thiệt hại lớn và bức xúc trong nhân dân. Đặc biệt, các đối tượng gia tăng hoạt động lừa đảo qua không gian mạng trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, ngày càng có nhiều người dân sử dụng các ứng dụng trên không gian mạng để giao tiếp, học tập, kinh doanh, mua sắm. Trong 06 tháng đầu năm 2022, Bộ Công an đã chỉ đạo lực lượng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đấu tranh 840 chuyên án, vụ việc liên quan tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.

Trong thời gian tới, chủ trương chuyển đổi số, phát triển nền kinh tế số, hội nhập sâu rộng với toàn cầu, các loại tội phạm với thủ đoạn hoạt động phạm tội mới, nhất là tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng cũng sẽ gia tăng, với nhiều phương thức tinh vi hơn. Đặc biệt, trước diễn biến phức tạp của tình hình dịch bệnh Covid-19, mọi hoạt động, tương tác, quan hệ, giao dịch trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội chủ yếu thông qua môi trường mạng, kéo theo hoạt động sử dụng không gian mạng để thực hiện tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật tăng mạnh. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng, Bộ Công an sẽ tiếp tục chỉ đạo thực hiện quyết liệt các giải pháp sau:

(1) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, triển khai thực hiện Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 25/5/2020 của Thủ tướng Chỉnh phủ về tăng cường phòng ngừa, xử lý hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Phối hợp với cơ quan truyền thông, báo chí tăng cường tuyên truyền dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng để Nhân dân nâng cao cảnh giác, phòng ngừa tội phạm; thường xuyên thông báo các thủ đoạn phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng cho các cơ quan, tổ chức và Nhân dân, đặc biệt là người cao tuổi ít tiếp xúc hoặc không biết sử dụng mạng Internet để biết và chủ động phòng tránh, kịp thời tố giác tội phạm.

(2) Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên các lĩnh vực viễn thông, ngân hàng, thanh toán trực tuyến, giao dịch tiền ảo, tiền điện tử và ngoại hối; kịp thời khắc phục những sơ hở mà tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng có thể lợi dụng, cũng như bất cập trong phân công, phân cấp, gây khó khăn cho công tác phối hợp, triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm.

(3) Chủ động nắm bắt tình hình, triển khai đồng bộ các giải pháp kỹ thuật, nghiệp vụ nhằm phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng tập trung phát hiện, xác minh, điều tra các vụ án phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng, các băng nhóm tội phạm lừa đảo xuyên quốc gia, xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo tính răn đe.

(4) Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng. Xây dựng các cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan, bộ ngành, ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet trong cung cấp thông tin, thực hiện các yêu cầu nghiệp vụ; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với các nhà cung cấp dịch vụ xuyên biên giới; tăng cường phối hợp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, ngăn chặn mọi sơ hở, điều kiện làm phát sinh tội phạm. Phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng, điều chỉnh các quy định chặt chẽ đối với những loại hình dịch vụ, lĩnh vực tiềm ẩn nguy cơ, phát sinh tội phạm, như: tiền ảo, kinh doanh ngoại hối, hoạt động cung ứng, sử dụng sim thẻ điện thoại; siết chặt quản lý việc mở thẻ, sử dụng thẻ ngân hàng, thanh toán qua biên giới; quản lý chặt chẽ các cuộc gọi quốc tế chiều về Việt Nam để kịp thời phát hiện, ngăn chặn các cuộc gọi giả mạo, siết chặt, quản lý thuê bao di động trả trước…

(5) Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng nói riêng. Tập trung trao đổi thông tin tội phạm, tranh thủ nguồn tài trợ các thiết bị kỹ thuật công nghệ cao và đào tạo cán bộ; phối hợp với các quốc gia giải quyết yêu cầu, phát hiện, xác minh điều tra tội phạm. Các yêu cầu phối hợp quốc tế phải được thực hiện một cách nhanh chóng, thậm chí thành lập các nhóm tác chiến có sự tham gia của cơ quan thực thi pháp luật nhiều quốc gia.

4. Cử tri kiến nghị nâng cấp mở rộng mặt đường Quốc lộ 38B đoạn từ huyện Gia Lộc đi huyện Thanh Miện (tỉnh Hải Dương) do hiện tại đường nhỏ hẹp, lượng xe lưu thông lớn, thường xảy ra tai nạn giao thông.

Bộ Giao thông vận tải trả lời như sau:

Theo Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1454/QĐ-TTg ngày 01/9/2021, Quốc lộ 38B có điểm đầu tại ngã tư Gia Lộc (tỉnh Hải Dương), điểm cuối tại vị trí giao cắt Quốc lộ 12B (tỉnh Ninh Bình), tổng chiều dài khoảng 122 km, trong đó chiều dài qua địa phận tỉnh Hải Dương khoảng 19 km.

Tại Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2021-2025, Bộ GTVT chỉ được phân bổ tổng số khoảng 304.104 tỉ đồng thấp hơn nhiều so với nhu cầu đầu tư khoảng 462.000 tỉ đồng. Theo quy định của Luật Đầu tư công, Nghị quyết của Quốc hội, số vốn này phải ưu tiên bố trí các nhiệm vụ chi bắt buộc[6]; khởi công mới một số dự án động lực, cấp bách xử lý các điểm nghẽn thuộc 5 chuyên ngành giao thông trên địa bàn 63 tỉnh, thành phố trong 5 năm [7].

Mặc dù trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp nêu trên, Bộ Giao thông vận tải đã báo cáo Chính phủ ưu tiên bố trí vốn tiếp tục đầu tư Dự án cải tạo, nâng cấp QL.37 (Km23+200 – Km47+888), tỉnh Hải Dương với mức vốn khoảng 338 tỉ đồng trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, hoàn thành trong năm 2022. Đối với Quốc lộ 38B đoạn từ huyện Gia Lộc đi huyện Thanh Miện, Bộ Giao thông vận tải ghi nhận kiến nghị của cử tri tỉnh Hải Dương và sẽ quan tâm ưu tiên đầu tư khi cân đối được nguồn lực.

Trong điều kiện chưa thực hiện ngay việc đầu tư đoạn tuyến, trước mắt Bộ Giao thông vận tải tiếp tục chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác duy tu, sửa chữa từ nguồn bảo trì đường bộ để bảo đảm an toàn giao thông cho người và phương tiện giao thông trên tuyến.


[1] Mỗi năm trung bình có thêm gần 10.000 cán bộ có trình độ trên đại học; bổ sung trên 35.000 cán bộ có trình độ đại học, trên 34.000 cán bộ có trình độ cao đẳng và khoảng 8.000 cán bộ có trình độ trung cấp. Tổng số cán bộ y tế tăng từ 441,4 nghìn người năm 2015 và khoảng 500 nghìn người năm 2020. Tỷ lệ bác sỹ trên một vạn dân tăng từ 7,2 năm 2011, 8,0 năm 2015 và 9,0 năm 2020. Cơ cấu trình độ chuyển biến theo hướng tích cực; trình độ từ đại học trở lên đạt 30,7%; cao đẳng đạt gần 23% trung cấp đạt 8,3% và sơ cấp đạt 38%.

 [2] Đến năm 2021, đã cấp mã cơ sở đào tạo liên tục cho các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp (mã A); các đơn vị trực thuộc Bộ, Hội nghề nghiệp (mã B) và các Sở Y tế các tỉnh/thành phố, đơn vị trực thuộc (mã C). Tổng số là 612 đơn vị đào tạo liên tục đã có mã số đào tạo liên tục.

 [3] Nghị định số 111/2017/NĐ-CP ngày 05/10/2017 Quy định về tổ chức đào tạo thực hành khói ngành sức khỏe; Luật Giáo dục năm 2019; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018; Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ…

 [4] Điều 87 của Luật khám bệnh, chữa bệnh, Luật quản lý sử dụng tài sản công; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006, Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ, Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ, Nghị định 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017; Nghị quyết 93/NQ-CP ngày 15/12/2014.

 [5](1) Đầu tư từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội cho các bệnh viện, trung tâm y tế huyện và trạm y tế xã với tổng kinh phí dự kiến 8.845 tỉ đồng.

 (2) Chương trình MTQG về phát triển KTXH vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025: Tổng kinh phí cho y tế dự kiến là 2.093,181 tỉ đồng (ngân sách TW: 1.496,692 tỉ đồng gồm 455,433 tỉ đồng vốn đầu tư và 1.041,259 tỉ đồng vốn sự nghiệp; ngân sách địa phương: 596,489 tỉ đồng) để tăng cường công tác y tế cơ sở, cải thiện sức khỏe người dân tộc thiểu số, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.

 (3) Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới: 2.050 tỉ đồng (tương đương 88,6 triệu USD) vốn đầu tư phát triển thực hiện Chương trình đầu tư phát triển mạng lưới y tế cơ sở vùng khó khăn vay vốn Ngân hàng phát triển Châu Á; vốn trong nước đầu tư cho các địa phương thực hiện Chương trình, trong đó có nội dung tăng cường chất lượng dịch vụ của mạng lưới y tế cơ sở, đầu tư xây mới 294 trạm y tế xã: 1.192 tỉ đồng; nâng cấp, cải tạo sửa chữa 260 trạm y tế xã: 321,2 tỷ đồng.

 (4) Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững: Tổng kinh phí dự kiến 2.000 tỉ đồng (ngân sách TW: 1.000 tỉ đồng vốn sự nghiệp, ngân sách địa phương: 500 tỉ đồng vốn sự nghiệp; Vốn huy động hợp pháp khác: 500 tỷ đồng) để cải thiện tình trạng dinh dưỡng và giảm suy dinh dưỡng thấp còi, chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể trạng và tầm vóc của trẻ em dưới 16 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và trẻ em sinh sống trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo.

 (5) Dự án đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống cung ứng dịch vụ y tế tuyến cơ sở nguồn vốn WB với tổng vốn 126,25 triệu USD để đầu tư cho 13 tỉnh (trong đó có tỉnh Quảng Ngãi, đầu tư xây mới 133 trạm y tế xã: 525,7 tỷ đồng; nâng cấp, cải tạo sữa chữa 308 trạm y tế xã: 477,7 tỷ đồng; nâng cấp, cải tạo sữa chữa 12 trung tâm y tế huyện: 173,3 tỷ đồng.

 [6] Khoảng 264.500 tỉ đồng bao gồm 147.000 tỉ đồng để hoàn thành các dự án chuyển tiếp từ giai đoạn trước, thanh toán các khoản nợ đọng thuộc nghĩa vụ của ngân sách nhà nước và 117.500 tỉ đồng cho 18 dự án đường bộ cao tốc khởi công mới.

 [7] Chỉ còn khoảng 39.604 tỉ đồng.

Ban biên tập tổng hợp

 
Các tin mới hơn
Trả lời ý kiến của cử tri thành phố Hải Dương (22/11/2022)
Các bài liên quan
Trả lời ý kiến của cử tri huyện Cẩm Giàng (22/11/2022)
 
Quay lạiXem tiếp